cục máu đông Covid

Xuất hiện cục máu đông sau COVID-19 nguy cơ cao gây đột quỵ

Đông máu là quá trình sinh lý của cơ thể có tác dụng cầm máu khi có vết thương do đó ngăn không cho máu trong lòng mạch chảy ra. Nhưng một số trường hợp đông máu lại gây nguy hiểm nhất là trong mạch máu. Chúng gây bít tắc dòng chảy của máu và gây ra các biến chứng nghiêm trọng như đột quỵ, nhồi máu cơ tim và thuyên tắc phổi.

Một nghiên cứu mới cho thấy COVID-19 kéo dài, có thể liên quan đến các vấn đề đông máu. Quan sát 50 người trung bình 68 ngày sau khi nhiễm COVID-19. Kết quả cho thấy những người có dấu hiệu đông máu cao hơn có nhiều khả năng mắc các triệu chứng COVID kéo dài.

Trong khi hầu hết những người mắc COVID-19 đều khỏi trong vòng vài tuần, một số người gặp phải tình trạng hậu COVID-19 hay còn gọi là Covid kéo dài.

Các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra câu trả lời cho sự bất thường này

Hiện nay, nghiên cứu mới phát hiện ra rằng những người mắc COVID kéo dài nguy cơ hình thành các cục máu đông cao hơn, điều đó có thể giúp giải thích các triệu chứng dai dẳng như  suy giảm sức khỏe thể lực và mệt mỏi.

Các dấu hiệu của hiện tượng đông máu sau nhiễm COVID-19

Các nhà khoa học đã theo dõi 50 người nhiễm COVID trong thời gian trung bình là 68 ngày. Kết quả cho thấy ở những bệnh nhân tồn tại triệu chứng COVID kéo dài có các dấu hiệu đông máu tăng đáng kể, so với những người khỏe mạnh sau khi khỏi COVID.

Mặc dù các dấu hiệu đông máu xuất hiện nhiều hơn ở những người nhập viện điều trị do COVID, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ngay cả những bệnh nhân triệu chứng nhẹ hoặc không triệu cũng có dấu hiệu máu tăng đông.

Theo Tiến sĩ Teresa Murray Amatos công tác tại New York cho rằng chưa có nhiều nghiên cứu để tìm ra mối tương quan giữa đông máu và COVID kéo dài, hoặc nguyên nhân và ảnh hưởng của những yếu tố gây đông máu. Tuy nhiên, điều quan trọng không nên loại trừ yếu tố đông máu dù chưa có biểu hiện.

COVID-19 dài có thể xảy ra vài tuần hoặc vài tháng sau

Theo tiến sĩ Amato kinh nghiệm quan sát những người bị COVID kéo dài sẽ có nhiều triệu chứng khác nhau. Sau đợt đại dịch đầu tiên, các bệnh nhân có biểu hiện kéo dài hàng tuần, hàng tháng sau khi nhiễm COVID-19 bao gồm các triệu chứng:

– Cảm giác mệt mỏi dù được nghỉ ngơi đầy đủ

– Lo âu

– Nói hụt hơi

– Tức ngực, đánh trống ngực

– Mất vị giác và khứu giác kéo dài

Cho đến nay để phát hiện những người bị COVID-19 kéo dài là vấn đề còn nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây này đã ghi nhận mối tương quan giữa các dấu hiệu hình thành cục máu đông và các triệu chứng kéo dài. Bà cho rằng những người có yếu tố rối loạn đông máu đều từ những người có COVID kéo dài. Và đông máu có thể là “nguyên nhân gốc rễ” của COVID kéo dài

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tăng đông máu liên quan trực tiếp đến các triệu chứng khác của COVID-19 kéo dài như giảm thể lực và mệt mỏi. Mặc dù xét nghiệm các marker gây viêm đã trở lại bình thường nhưng vẫn có khả năng tiềm tàng hình thành cục máu đông.

Tiến sĩ Helen Fogarty công tác tại Trường Dược và Sinh học Phân tử Sinh RCSI cũng nhận xét tương tự: “Các dấu hiệu đông máu tăng cao trong khi chỉ số các marker viêm trở lại bình thường, kết quả cho thấy hệ thống đông máu có thể liên quan đến nguyên nhân gốc rễ của COVID kéo dài. Các chuyên gia khi khám nghiệm tử thi của những người tử vong vì COVID-19 cho thấy tình trạng viêm ở các tế bào nội mô vùng tim và tế bào máu, và sự đông máu trong hệ thống mạch máu được kích hoạt bởi các phản ứng miễn dịch – là yếu tố chính làm tăng mức độ nặng của bệnh. Họ tin rằng sự kích hoạt các tế bào này cũng có thể góp phần gây ra COVID kéo dài.

Các chuyên gia nói rằng COVID dài hạn vẫn còn chưa được hiểu rõ, và những phát hiện này có thể giúp xác định những người có nguy cơ gặp phải các triệu chứng lâu dài. Họ cũng cảnh báo những người bị COVID kéo dài ngày càng trẻ hóa, trong khi các biến thể đang gây ra các triệu chứng mới. Như vậy cách tốt nhất để ngăn ngừa bệnh tật và dự phòng được COVID kéo dài.quan trọng là tiêm chủng vaccine đầy đủ.

———-

Nguồn: What Is Behind Long COVID? It Could Start with Blood Clotting Issues

https://www.healthline.com/health-news/what-is-behind-long-covid-it-could-start-with-blood-clotting-issues


Estrogen bảo vệ phụ nữ mắc COVID

Liệu pháp Estrogen giảm tỷ lệ tử vong vì COVID-19

Từ một nghiên cứu trên toàn quốc sử dụng dữ liệu từ Thụy Điển, được công bố ngày 14 tháng 2 năm 2022 trên tạp chí BMJ Open, bởi Malin Sund và các đồng nghiệp, thuộc Khoa Y Đại học Umeå, Thụy Điển. Trong số những phụ nữ sau mãn kinh từ 50 – 80 tuổi bị nhiễm COVID-19, những người sử dụng estrogen thay thế có nguy cơ tử vong thấp hơn 50% so với những người không nhận được sử dụng estrogen thay thế. Nghiên cứu này cho thấy mối liên hệ giữa nồng độ estrogen và tử vong do COVID-19.

Nhưng cũng có quan điểm khác, Anne-Marie Fors Connolly, MD, công tác trong ngành vi sinh học tại Đại học Umeå, cho rằng loại nghiên cứu này được gọi là “quan sát”, có nghĩa là kết quả cần phải được xác nhận trước khi các bác sĩ có thể xem xét và bổ sung estrogen cho mục đích nghiên cứu này.

Stephen Evans, Giáo sư Dược học, Trường Vệ sinh & Y học Nhiệt đới London đồng tình với quan điểm trên. Đây là một nghiên cứu quan sát so sánh ba nhóm phụ nữ, dựa trên việc họ sử dụng liệu pháp nội tiết thay thê để tăng mức độ estrogen. Những phát hiện này rõ ràng là rất đáng kinh ngạc. Ông nói: “Có những lợi ích ngắn hạn của liệu pháp hormone mãn kinh, nên dùng liệu pháp thay thế này để làm giảm tử vong khi nhiễm COVID-19.

Phụ nữ có tử vong ít hơn vì COVID-19 so với nam giới không?

Các nghiên cứu được tiến hành sớm trong đại dịch cho thấy phụ nữ có thể được bảo vệ khỏi những biến chứng xấu của SARS-CoV-2 so với nam giới.

Theo số liệu gần đây hơn của Cơ quan Y tế Công cộng Thụy Điển, khoảng 45% trong số 16.501 người đã chết vì COVID-19 ở đó kể từ khi bắt đầu đại dịch là phụ nữ và 55% là nam giới. Khoảng 70% những người được chăm sóc đặc biệt do COVID-19 là nam giới, mặc dù dữ liệu tích lũy hiện nay cho thấy rằng phụ nữ có nguy cơ tử vong vì COVID-19 gần như nam giới.

Đối với nghiên cứu hiện tại, tổng cộng 14.685 phụ nữ có độ tuổi từ 50–80 tuổi, trong đó 17,3% (2.535) đã được bổ sung estrogen thay thế, 81,2% (11.923) có mức estrogen tự nhiên không bị ung thư vú hoặc mãn kinh và 1,5% (227) phụ nữ bị giảm nồng độ estrogen do ung thư vú và điều trị bằng thuốc kháng estrogen.

 Ở nhóm bị giảm nồng độ estrogen có nguy cơ tử vong do COVID-19 cao hơn gấp hai lần so với bệnh nhân được bổ sung, nhưng sự khác biệt này không còn có ý nghĩa thống kê sau khi các nhà khoa học điều chỉnh số liệu về các yếu tố đã biết ảnh hưởng đến tử vong do COVID- 19, bao gồm tuổi, thu nhập và trình độ học vấn, và số bệnh đồng thời (bệnh đi kèm).

Nhưng nhóm có nồng độ estrogen từ liệu pháp thay thế lại giảm được khoảng 55% nguy cơ tử vong do COVID-19 và điều này vẫn được duy trì ngay cả sau khi điều chỉnh các yếu tố tương tự.

Tuy nhiên, các nhà khoa học không có thông tin về bệnh béo phì, hiện nay được biết đến là một yếu tố nguy cơ gây tử vong do COVID-19.

Tỷ lệ phụ nữ chết vì COVID-19 là 10,1% trong số những người bị giảm estrogen, 4,6% với mức estrogen tự nhiên và 2,1% ở những người dùng liệu pháp thay thế hormon có tăng estrogen.

Các nhà nghiên cứu cho biết: “Do đó, các loại thuốc làm tăng nồng độ estrogen có thể có vai trò trong các nỗ lực điều trị nhằm làm giảm mức độ nghiêm trọng của COVID-19 ở phụ nữ sau mãn kinh, nhưng họ nhấn mạnh rằng điều này cần được nghiên cứu trong các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên”.

Connolly đưa ra một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên hiện đang diễn ra ở Hoa Kỳ chọn 120 đối tượng để điều tra tác dụng của liệu pháp estradiol và progesterone ở người lớn nhập viện với COVID-19.

Bà cũng đưa ra ý kiến “Trong khi chờ đợi kết quả nghiên cứu vui lòng không xem xét việc dừng điều trị bằng thuốc kháng estrogen sau khi bị ung thư vú, đây là điều trị cần thiết cho căn bệnh ung thư”.

————-

Nguồn: Women on Estrogen Replacement Less Likely to Die From COVID

https://www.webmd.com/lung/news/20220218/women-estrogen-replacement-less-likely-die-covid


COVID gây nhiều ảnh hưởng lên hệ tim mạch

Ảnh hưởng của COVID-19 lên tim mạch

Ảnh hưởng của COVID-19 lên tim mạch như thế nào?

Virus Sars-Cov-2 xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp sau đó tấn công phổi – đó là lý do tại sao một số triệu chứng phổ biến nhất liên quan đến hô hấp. Không chỉ có vậy các cơ quan khác cũng có thể bị xâm nhập trong đó có tim.

Hai biến chứng COVID liên quan đến tim mạch hay gặp nhất là:

1.Viêm cơ tim

Đây là tình trạng viêm các tế bào cơ tim. Làm ảnh hưởng đến chức năng bơm máu của tim. Theo các nghiên cứu gần đây,  nguyên nhân chủ yếu các tế bào miễn dịch của cơ thể và sự phản ứng quá mức của hệ thống các trung gian phản ứng viêm lên các tế bào cơ tim gây tổn thương tế bào cơ tim, kết cục gây ra tình trạng suy giảm chức năng tim và các rối loạn nguy hiểm khác.

Một số triệu chứng thường gặp như:

+ Đau tức ngực (Tức nặng ngực bên trái)

+ Mệt mỏi

+ Khó thở

+ Rối loạn nhịp tim

Nếu viêm cơ tim mức độ nhẹ, có thể không có bất kỳ triệu chứng nào. Nhưng nếu tình trạng nghiêm trọng có thể dẫn đến suy tim làm rối loạn các chức năng sống khác.

Cách tốt nhất để ngăn ngừa viêm cơ tim liên quan đến COVID là tiêm đủ 2 mũi vaccine cơ b bản ngừa COVID. Bằng cách này, khi tiếp xúc với COVID-19, cơ thể sẽ tạo kháng thể chống lại virus và giảm thiểu tối đa các tổn thương do virus gây ra.

2.Cục máu đông

Bình thường khi đứt tay, hệ thống đông máu sẽ kích hoạt hình thành cục máu đôing để cầm máu. Nhưng khi nhiễm COVID-19, hệ thống đông máu bị rối loạn sẽ hình thành các cục máu đông kích thước nhỏ lưu hành trong mạch máu. Tích tụ dần dần sẽ tạo thành cục máu đông lớn gây tắc mạch máu.

Có hai loại cục máu đông chính:

Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT): Loại này thường ở cánh tay hoặc chân, nhưng nó có thể xảy ra ở các bộ phận khác của cơ thể. Biểu hiện

+ Một cánh tay hoặc chân bị sưng

+ Chuột rút hoặc đau ở chân

+ Da đổi màu tím tái

Thuyên tắc phổi (PE): Cục máu đông rất nghiêm trọng xuất hiện trong phổi. Biểu hiện

+ Khó thở

+ Ho, khạc đờm có lẫn máu

+ Đau tức ngực khi ho hoặc hít sâu

+ Có thể có rối loạn nhịp tim

Ở những người mắc bệnh tim từ trước. Mắc COVID có thể làm cho các triệu chứng trầm trọng hơn.

Liệu tiêm vaccine có làm giảm nguy cơ biến chứng tim mạch không?

Chắc chắn rồi. Các loại vắc xin Moderna, và Pfizer an toàn và hiệu quả cho những người bị bệnh tim.

Các chuyên gia sức khỏe hàng đầu có sở thích đối với loại vắc xin mà bạn chọn. Họ khuyên bạn nên chủng ngừa bằng mRNA (như vắc-xin của Pfizer và Moderna). Khuyến nghị được CDC xác nhận và đến từ Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng, nơi đã xem xét các bằng chứng mới nhất về hiệu quả, tính an toàn và các tác dụng phụ hiếm gặp của các loại vắc xin hiện có. Các chuyên gia nói rằng nhận được bất kỳ loại vắc xin COVID-19 nào tốt hơn là không được tiêm chủng.

Tiêm vaccine COVID cho trẻ em có làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim không?

Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) đã liên tục theo dõi cách trẻ em và thanh thiếu niên phản ứng với vaccine COVID. Cho đến nay, rất hiếm trường hợp trẻ em bị biến chứng tim mạch và những trường hợp nặng nhất đã khỏi sau vài ngày nằm viện. Nói chung, nhiễm COVID là mối đe dọa lớn hơn nhiều đối với sức khỏe tim mạch  so với tác dụng phụ của vaccine.

———————–

Nguồn: Jennifer Robinson, MD on January 23, 2022– MEDMD

https://www.webmd.com/lung/covid-and-your-heart#1

 

 


Tác động hậu COVID đối với sức khỏe

Nghiên cứu gần đây cho thấy hơn 40% những người đang nhiễm hoặc đã nhiễm COVID-19 bị COVID kéo dài. Trong số những người nhập viện điều trị có tới 57% số ca bị COVID kéo dài.

Một nghiên cứu khác chỉ ra khoảng 10% những người trong độ tuổi từ 18 đến 49 mắc COVID-19 bị kéo dài. Tỷ lệ này tăng lên 22% ở những người từ 70 tuổi trở lên. Tuy nhiên nó có thể xảy ra với bất kỳ ai, cho dù khỏe mạnh hay có các tình trạng sức khỏe khác. Đối tượng bị COVID kéo dài ngay cả khi các triệu chứng COVID-19 trước đó là nhẹ hoặc trung bình.

Nguyên nhân

Các nhà khoa học hiện tại chưa lý giải được nguyên nhân gây Covid kéo dài. Các chuyên gia vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để giải quyết các vấn đề như:

+ Phương pháp điều trị và phòng ngừa

+ Thời gian hết được triệu chứng COVID kéo dài

+ Liệu COVID kéo dài có thể gây ra các biến chứng về tim và não hay không ?

+ Vai trò của vaccine trong dự phòng COVID kéo dài

Triệu chứng

COVID kéo dài có các triệu chứng đa dạng có thể là một hoặc kết hợp nhiều triệu chứng. Các triệu chứng hay gặp nhất như:

+ Mệt mỏi

+ Sương mù não (suy giảm trí nhớ, khó tập trung làm việc..)

+ Mất khứu giác và vị giác

+ Nói hụt hơi

+ Ho

+ Đau khớp

+ Đau ngực

Ngoài ra có các triệu chứng khác như:

+ Gặp vấn đề về giấc ngủ (mất ngủ, khó vào giấc ngủ)

+ Cảm giác lo âu, chán nản

+ Rối loạn tiêu hóa

+ Đau cơ

+ Đau đầu

+ Rối loạn nhịp tim

Trong một số trường hợp ít gặp:

+ Viêm cơ tim

+ Tổn thương phổi (xơ hóa phổi)

+ Suy giảm chức năng thận

+ Rụng tóc

+ Viêm da

Nếu gặp bất kỳ triệu chứng nào đã kể trên nên khám bệnh tại cơ sở y tế gần nhất để được điều trị kịp thời.

COVID kéo dài và vaccine

Khi các nhà khoa học nghiên cứu nguyên nhân và triệu chứng của COVID kéo dài, một nghiên cứu lớn ở Anh đã quan sát dữ liệu của hơn 1,2 triệu người được tiêm chủng (một mũi và đủ hai mũi vaccine).

Các chuyên gia đã phát hiện những người được tiêm chủng đầy đủ (từ 2 mũi trở lên) – (Pfizer, Moderna hoặc AstraZeneca) thì tỷ lệ xuất hiện triệu chứng kéo dài thấp hơn gần 50% so với nhóm không tiêm hoặc tiêm không đầy đủ.

Điều trị COVID kéo dài

Các triệu chứng COVID kéo dài có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng. Hiện tại, chưa có phương pháp điều trị dứt điểm các triệu chứng bệnh kéo dài.

– Điều trị triệu chứng tim đập nhanh, đau ngực: Nên đi khám để được kiểm tra tim và được kê đơn thuốc phù hợp. Ngoài ra, người bệnh cũng nên thực hiện một số bài tập thể lực nhẹ nhàng để sớm cải thiện nhịp tim về như bình thường.

– Điều trị triệu chứng yếu sức và mệt mỏi: người bệnh cần tập thể dục một cách từ từ để làm tăng sức mạnh và độ bền của cơ bắp. Có thể tập nhẹ như đi bộ, yoga… Trường hợp mệt mỏi kéo dài dai dẳng, người bệnh cần được thăm khám bởi bác sĩ tim – phổi để tìm ra nguyên nhân.

– Điều trị triệu chứng đau nhức khớp: giảm đau bằng các loại thuốc như acetaminophen khi không mắc bệnh thận hoặc bệnh dạ dày. Ngoài ra, người bệnh cũng nên thực hiện vật lý trị liệu để sớm phục hồi khớp bị đau. 

– Điều trị triệu chứng mất khứu giác, vị giác: tập bài tập nhớ mùi, nhớ vị để dần dần cải thiện triệu chứng.

– Điều trị triệu chứng suy giảm trí nhớ, khả năng tập trung kém, hay quên: Tập thói quen ghi các việc cần làm vào sổ hoặc tờ giấy để có thể ghi nhớ dễ dàng, Tập thiền để tăng sự tập trung

– Điều trị triệu chứng rụng tóc: đây là hiện tượng dễ xảy ra ở những người bị stress, lo lắng khi mắc COVID-19. Điều trị hội chứng hậu COVID trong trường hợp này không khó vì tình trạng rụng tóc sẽ chấm dứt ở đại đa số bệnh nhân sau vài tuần hoặc vài tháng. Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ kê đơn thuốc giúp kích thích mọc tóc cho người bệnh.

– Điều trị triệu chứng nổi mẩn trên da: người bệnh dễ bị dị ứng, nổi mề đay, viêm da cơ địa. Tùy từng trường hợp cụ thể mà bác sĩ sẽ kê đơn thuốc bôi ngoài da phù hợp.

Phòng tránh COVID kéo dài

Cách tốt nhất để tránh COVID kéo dài là hạn chế sự lây lan của nhiễm COVID-19 và tiêm đủ 2 mũi vaccine cơ bản càng sớm càng tốt. Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) cho biết tất cả những người từ 5 tuổi trở lên, đủ điều kiện sức khỏe, nên tiêm vaccine ngừa COVID-19. Vaccine an toàn và hiệu quả trong việc ngăn ngừa và hạn chế sự lây lan của vi rút.

Ngoài ra, thực hiện tốt nguyên tắc 5K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế) cũng giúp giảm thiểu tối đa khả năng lây nhiễm của COVID.

——————–

– Nguồn: CDC: “Frequently Asked Questions about COVID-19 Vaccination,” “Long-Term Effects of COVID-19,” “About COVID-19 Vaccines.”

MedRxiv: “Global Prevalence of Post-Acute Sequelae of COVID-19 (PASC) or Long COVID: A Meta-Analysis and Systematic Review.”


Tìm thấy coronavirus trong phân rât lâu sau khỏi COVID

Tìm thấy virus corona trong phân sau mắc COVID-19 tới 7 tháng

Các nhà khoa học Đại học Stanford (Mỹ) đã phát hiện virus corona trong phân bệnh nhân COVID-19 sau khỏi bệnh tới 7 tháng, nhưng cho biết sẽ cần nghiên cứu thêm để xác định liệu COVID-19 có lây truyền qua đường phân – miệng trong thời gian dài sau nhiễm bệnh hay không?

phát hiện virus corona trong phân bệnh nhân COVID-19 sau khỏi bệnh tới 7 tháng

Trung bình, 1 trong 7 bệnh nhân COVID-19 tiếp tục thải vật chất di truyền của virus SARS-CoV-2 ít nhất 4 tháng sau chẩn đoán ban đầu. Rất lâu sau khi ngừng thải virus qua đường hô hấp.

Điều này có thể giải thích tại sao một số bệnh nhân COVID-19 xuất hiện triệu chứng tiêu hóa (như đau bụng, tiêu chảy,…), tiến sĩ Ami Bhatt, phó giáo sư di truyền học tại Đại học Stanford cho biết.

“Chúng tôi phát hiện những người đã khỏi nhiễm trùng đường hô hấp – nghĩa là xét nghiệm SARS-CoV-2 âm tính trong bệnh phẩm đường hô hấp – vẫn tiếp tục thải RNA virus trong phân,” tiến sĩ Ami Bhatt cho biết thêm. “Và đặc biệt, những người này thường có các triệu chứng tiêu hóa.”

Nhiễm trùng đường tiêu hóa kéo dài cũng có thể góp phần gây ra các triệu chứng hậu COVID.

Nhiều nghiên cứu trước đây tập trung đánh giá virus trong chất thải ở bệnh nhân COVID nặng. Nhưng đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá sự hiện diện của RNA virus trong trong phân người mắc COVID mức độ nhẹ đến trung bình.

Khoảng một nửa bệnh nhân (49%) có RNA virus trong phân trong vòng tuần đầu tiên nhiễm bệnh. 

Sau nhiễm 4 tháng, không còn virus trong đường hô hấp, nhưng gần 13% bệnh nhân tiếp tục thải mảnh vật chất di truyền qua phân.

Khoảng 4% vẫn tìm thấy RNA virus trong phân sau 7 tháng từ khi được chẩn đoán mắc COVID-19.

SARS-CoV-2 có thể tồn tại trong đường tiêu hòa hoặc thậm chí các mô khác trong thời gian dài hơn so với tồn tại trong đường hô hấp. Và virus tiếp tục gây ra phức ứng miễn dịch và các hệ quả kéo dài.

Phó giáo sư Bhatt, tác giả của nghiên cứu cho biết những phát hiện này cũng có ý nghĩa đối với các nỗ lực dự đoán, giám sát các đợt bùng phát COVID bằng cách kiểm tra, phát hiện virus trong nước thải của cộng đồng dân cư.

—-

Tài liệu tham khảo:

Ami Bhatt, MD, PhD, associate professor, medicine and genetics, Stanford University, Stanford, Calif.; William Schaffner, MD, medical director, National Foundation for Infectious Diseases; Amesh Adalja, MD, senior scholar, Johns Hopkins Center for Health Security; Med, April 12, 2022


mắc COVID nhẹ cũng gấy mất chất xám não nhiều hơn

Mắc COVID-19 nhẹ cũng làm mất chất xám não bộ nhiều hơn

Theo nghiên cứu mới nhất trên tạp chí Nature, ngay cả người mắc COVID-19 nhẹ cũng gặp tình trạng mất chất xám và các tổn thương mô não khác.

Phó giáo sư khoa học thần kinh Gwenaëlle Douaud tại Đại học Oxford (Anh) cùng đồng nghiệp đánh giá hình ảnh chụp não của 785 bệnh nhân người Anh từ 51 đến 81 tuổi. Trong đó, 401 người mắc COVID-19 và có 15 người phải nhập viện.

Mắc COVID-19 nhẹ cũng làm mất chất xám não bộ nhiều hơn

Mất chất xám và tổn thương mô não hầu hết ở các vùng não liên quan đến khứu giác của bệnh nhân COVID-19

“Mặc dù 96% người mắc COVID-9 mức độ nhẹ, chúng tôi thấy chất xám mất đi nhiều hơn và tổn thương mô não lớn hơn ở người nhiễm COVID-19 so với người không nhiễm tại thời điểm 4 tháng rưỡi sau nhiễm so với trước nhiễm,” nhà khoa học Gwenaëlle Douaud cho biết.

Trung bình, những người mắc COVID-19 mất thêm 0,2%-2% chất xám hoặc tổn thương mô não so với những người không mắc.

Teo não và tổn thương nhu mô nổi bật nhất ở các vùng não liên quan đến khứu giác. Nhiều bệnh nhân đã phàn nàn về tình trạng mất khứu giác tạm thời.

COVID-19 có thể gây suy giảm nhận thức

Các bệnh nhân trong nghiên cứu đã thực hiện kiểm tra đánh giá nhận thức. Kết quả, bệnh nhân COVID-19 suy giảm khả năng nhận thức nhiều hơn bệnh nhân không nhiễm COVID-19.

Cụ thể, trong bài kiểm tra tâm thần kinh liên quan đến trình tự các số và chữ cái, người bị COVID-19 mất nhiều thời gian hơn đáng kể để hoàn thành bài tập so với những người không bị nhiễm.

Nhà khoa học Michelle Monje-Deisseroth – giáo sư thần kinh học tại Đại học Stanford ở California, người không tham gia vào nghiên cứu, cho biết nghiên cứu cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng COVID-19 có thể gây ra những ảnh hưởng lâu dài đến cấu trúc và chức năng của não, ngay cả ở những người nhiễm bệnh mức độ nhẹ.

“Nghiên cứu trên bổ sung thêm bằng chứng liên quan đến COVID-19 và suy giảm nhận thức dai dẳng và phù hợp với sự hiểu biết ngày càng tăng của chúng ta về các tác động sinh học thần kinh của COVID,” Tiến sĩ Monje-Deisseroth cho biết thêm.

Theo phó giáo sư Douaud, một câu hỏi quan trọng cho các nghiên cứu hình ảnh não trong tương lai là xem liệu tổn thương mô não này có được cải thiện trong thời gian dài hơn hay không? Cần nghiên cứu thêm để hiểu cơ chế tế bào và phân tử đằng sau tác động của COVID-19 lên não bộ.

—-

Tài liệu tham khảo:

Abbasi J. Even Mild COVID-19 May Change the Brain. JAMA. 2022;327(14):1321–1322.


Bạn biết gì về “Răng COVID”?

Vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu về COVID-19 với hàng loạt triệu chứng khác nhau. Một số nghiên cứu gần đây ghi nhận một triệu chứng được các nhà chuyên môn quan tâm, đó là cụm từ còn khá lạ lẫm “Răng COVID – COVID Teeth”.

Tham vấn y khoa: ThS. BS. Đào Trung Hải

Bạn biết gì về "Răng COVID"?

1. Các triệu chứng COVID-19 ở miệng, răng và nướu

SARS-CoV-2 tấn công tế bào người bệnh qua thụ thể ACE2. Thụ thể ACE2 giống như cánh cửa phía trước cho phép vi rút xâm nhập vào tế bào.

Bạn thử đoán xem tế bào có nhiều thụ thể ACE2 có ở đâu? Câu trả lời là Khoang miệng, lưỡi và nướu là những cơ quan nơi các tế bào có sự hiên diện nhiều thụ thể này. 

Và điều đặc biệt là, những người có sức khỏe răng miệng kém lại có xu hướng có nhiều thụ thể ACE2 hơn.

Nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa mức độ nghiêm trọng của bệnh răng miệng và diễn biến bệnh COVID-19 nặng. Theo thống kê có khoảng 75% những người bị bệnh răng miệng nghiêm trọng phải nhập viện do COVID-19. Trong khi đó, nhóm những người không có bất kỳ dấu hiệu rõ ràng nào của bệnh răng miệng, không ai phải nhập viện.

Điều này có thể được lý giải do những người có sức khỏe răng miệng kém thường có xu hướng mắc các bệnh mãn tính khác.

Các vấn đề về răng miệng không nằm trong nhóm triệu chứng covid phổ biến

Trong nghiên cứu tổng quan hệ thống gồm 54 nghiên cứu mô tả các triệu chứng COVID-19, đau răng hoặc các triệu chứng liên quan đến khoang miệng không nằm trong nhóm 12 triệu chứng được báo cáo nhiều nhất. Sốt (81,2%), ho (58,5%) và mệt mỏi (38,5%) là những triệu chứng phổ biến nhất.

Nhưng điều này không có nghĩa người nhiễm COVID-19 không gặp các triệu chứng về răng miệng.

2. Điều trị đau “Răng COVID”

Nếu bị đau răng khi nhiễm COVID-19, có thể sử dụng thuốc giảm đau như ibuprofen hoặc acetaminophen. Chườm lạnh bằng khăn ẩm bên ngoài má cũng có thể hiệu quả.

Trường hợp viêm nhiễm vùng miệng khi mắc COVID-19, chẳng hạn như nấm miệng, bạn nên đi khám bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán và kê đơn cụ thể. 

Người bệnh COVID-19 bị sâu răng, nhiễm khuẩn răng bùng phát nên đi khám nha sĩ nếu dùng thuốc chống viêm, giảm đau không có tác dụng.

3. Một số câu hỏi về COVID-19 và sức khỏe răng miệng

Chảy máu nướu răng có phải là triệu chứng của COVID-19 không?

Chảy máu nướu răng không được liệt kê là một triệu chứng phổ biến của COVID-19. Tăng đông máu thay vì chảy máu được báo cáo một biểu hiện của COVID-19.

Tuy nhiên, chảy máu nướu răng có thể là dấu hiệu của bệnh nướu răng. Bạn không nên bỏ qua chúng. Bạn có thể tới khám nha sĩ khi sức khỏe đã hồi phục tốt hơn sau COVID-19.

COVID-19 có gây phát ban trong miệng không?

Phát ban hay từ dân gian thường gọi là nhiệt miệng không phải là một triệu chứng COVID-19 thường gặp.

Theo nghiên cứu của tiến sĩ Guan và các đồng nghiệp, chỉ có 2 trong số 1.099 người mắc COVID-19 có triệu chứng phát ban, nhiệt miệng.

Cho đến này, chưa có tài liệu y văn nào báo cáo biểu hiện phát ban trong khoang miệng ở bệnh nhân COVID-19. Nếu bạn đang gặp phải tình trạng này, hãy liên hệ với bác sĩ để tìm ra nguyên nhân.

Lớp phủ trắng trên lưỡi có phải là triệu chứng của COVID-19 không?

Một lớp phủ trắng trên lưỡi có thể do một số nguyên nhân khác nhau. Ví dụ, nấm miệng (tưa miệng) Candida có thể gây lưỡi đóng bợn trắng.

Mặc dù COVID-19 không gây tưa miệng, nhưng virus SARS-CoV-2 lại ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Điều này có thể khiến người bệnh dễ bị nhiễm trùng khác, chẳng hạn như tưa miệng.

—-

Tài liệu tham khảo:

1. Sirin, D.A., Ozcelik, F. The relationship between COVID-19 and the dental damage stage determined by radiological examination. Oral Radiol 37, 600–609 (2021).

2. Alimohamadi Y, Sepandi M, Taghdir M, Hosamirudsari H. Determine the most common clinical symptoms in COVID-19 patients: a systematic review and meta-analysis. J Prev Med Hyg. 2020;61(3):E304-E312.


Bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ diễn biến nặng khi mắc COVID

Các vấn đề của bệnh nhân đái tháo đường mắc COVID-19

Đái tháo đường được coi là bệnh nền có nguy cơ hàng đầu khiến cho bệnh nhân trở nặng và khó điều trị nếu mắc COVID-19. Đây được coi là bệnh nền phức tạp có thể tiến triển rất xấu nếu không may nhiễm virus SARS-CoV-2.

Bệnh đái tháo đường và COVID-19

Các nghiên cứu ban đầu chỉ ra khoảng 25% số người bị đái tháo đường mắc Covid phải nhập viện điều trị. Những người bị đái tháo đường có nhiều khả năng xuất hiện các biến chứng nghiêm trọng có thể dẫn tới tử vong. Nguyên nhân chính do lượng đường trong máu cao làm suy yếu hệ thống miễn dịch làm cho cơ thể giảm đáng kể khả năng chống lại virus.

Không chỉ có vậy lượng đường máu tăng cao đồng thời nhiễm COVID sẽ có nguy cơ mắc các biến chứng nguy hiểm như nhiễm toan chuyển hóa. Nó biểu hiện bởi các triệu chứng: nôn, buồn nôn, đau bụng, và có thể phù não, hôn mê và tử vong.

Ngoài ra một số trường hợp còn gặp biến chứng nhiễm khuẩn huyết. Đây là biến chứng có tỷ lệ tử vong cao trong khi phương pháp điều trị còn nhiều khó khăn.

Chăm sóc bệnh nhân đái tháo đường nhiễm COVID-19

Người bệnh đái tháo đường luôn có nguy cơ biến chứng rất cao nếu nhiễm COVID-19. Do vậy, trong mùa dịch, bệnh nhân đái tháo đường cần có kế hoạch chăm sóc sức khỏe đúng cách để phòng bệnh: 

+ Duy trì lối sống lành mạnh

Luôn theo dõi lượng đường máu thường xuyên. Duy trì thói quen tập thể dục đều đặn, thường xuyên để tăng đề kháng và sức khỏe của bản thân. Luôn ngủ đủ giấc, tránh thức khuya. Tránh hoàn toàn các chất kích thích có hại cho sức khỏe như rượu, bia, thuốc lá. Uống thuốc đều đặn theo hướng dẫn của bác sĩ. 

+ Chế độ ăn đủ dinh dưỡng

Ngoài việc duy trì các thói quen tốt để giữ ổn định đường huyết thì người bệnh cần xây dựng chế độ ăn uống hợp lý, tăng cường dinh dưỡng để tăng sức khỏe cho bản thân.

Chế độ ăn uống có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của bệnh nhân tiểu đường. Chế độ ăn phải đảm bảo đúng theo hướng dẫn của bác sĩ, ăn nhiều bữa một ngày, hạn chế tối đa các loại thức ăn chứa nhiều đường và chất béo bão hòa. Tăng cường rau xanh, hoa quả và uống nhiều nước mỗi ngày.

+ Thực hiện nghiêm chế độ “5K”

Người bệnh đái tháo đường trong dịch bệnh COVID-19 cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định phòng bệnh. Trong đó, thực hiện nghiêm quy định “5K” đã được Bộ Y tế khuyến cáo.

Như vậy, cách tốt nhất để phòng bệnh là thực hiện đúng các phải pháp phòng dịch theo hướng dẫn. Đồng thời giữ tâm lý thoải mái, lạc quan trong mùa dịch, tránh những lo âu và phiền muộn không đáng có, ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần.

Làm gì khi bị nhiễm COVID ?

Nếu không may nhiễm COVID, cần lưu ý những điều sau:

+ Kiểm tra lượng đường máu thường xuyên, duy trì ở mức cho phép.

+ Sử dụng một số thuốc để làm giảm các triệu chứng do COVD gây ra như sốt, đau rát họng, ho, đau đầu. Nhưng lưu ý một số thuốc có thể ảnh hưởng đến lượng đường trong máu như Liều cao aspirin hoặc ibuprofen có thể làm giảm lượng đường trong máu. Acetaminophen có thể gây hiện tượng hiển thị kết quả sai của máy đo đường huyết. Nhiều loại thuốc trị ho và cảm lạnh có hàm lượng đường cao, có thể làm tăng lượng đường trong máu c. Trước khi dùng, nên được tư vấn bởi bác sĩ.

+ Khi gặp các triệu chứng: Khó thở nhiều, SpO2 < 95%, Đau tức ngực, rối loạn ý thức (lú lẫn, lơ mơ) phải báo cáo cho nhân viên y tế kịp thời để xử trí.

—————-

Nguồn:

Diabetes and coronavirus

https://www.webmd.com/diabetes/diabetes-and-coronavirus


WHO cảnh báo Viêm gan do virus lạ ở trẻ em

Viêm gan cấp ở trẻ mắc cúm mới được WHO cảnh báo

Tổ chức Y tế Thế giới đang điều tra các trường hợp trẻ em hoàn toàn khỏe mạnh bị viêm gan, tổn thương gan nghiêm trọng và hiếm gặp.

Trẻ em ở các nước  Anh, Mỹ, Ireland và Tây Ban Nha đã bị viêm gan cấp tính nặng, gây suy chức năng gan cấp nghiêm trọng đe dọa tính mạng. Mặc dù các xét nghiệm xác định vi rút gây bệnh viêm gan A, B, C, D và E đều âm tính; có nghĩa là các trẻ em này trước đó và hiện tại hoàn toàn không bị nhiễm các loại virus gây viêm gan phổ biến đã biết trước đó. Hiện nay, Tổ chức y tế thế giới cho rằng căn bệnh tối cấp nguy hiểm này có thể do adenovirus gây ra.

Viêm gan ở trẻ em do Virus lạ?

Viêm gan ở trẻ em do Virus lạ?

Trong một báo cáo khẩn cấp ngày 15/4/2022, Tổ chức Y tế Thế giới đang xem xét các trường hợp viêm gan cấp tính nghiêm trọng ở trẻ em tại Anh, Ireland và Tây Ban Nha. Các trường hợp này không liên quan đến viêm gan A, B, C, D và E, các loại vi rút thường gây ra bệnh viêm gan đã biết trước đây.

Cho đến nay, 74 trường hợp đã được xác định ở trẻ em dưới 10 tuổi tại Anh, 5 trường hợp xác định ở Ireland và 3 trường hợp được xác nhận ở Tây Ban Nha.

Báo State News cũng đưa tin các quan chức ở Mỹ đang điều tra 9 trường hợp viêm gan cấp tính nặng ở trẻ em mà nguyên nhân không phải do vi rút viêm gan thông thường gây ra. Thông báo khác của Bộ Y tế Alabama kể từ tháng 11 năm 2021, có 9 trường hợp mắc bệnh viêm gan cấp tính này được xác định ở trẻ em dưới 10 tuổi.

TCYT thế giới còn cho biết nguyên nhân của bệnh suy gan này vẫn chưa rõ ràng và đang được điều tra, nhưng Adenovirus, một bệnh đường hô hấp thường gây ra cảm lạnh có thể có liên quan.

Tại bang Alabama – Hoa Kỳ, cả 9 đứa trẻ đều có kết quả xét nghiệm dương tính với Adenovirus. Theo Karen Landers, nhân viên y tế quận của Sở Y tế công cộng Alabama các ca bệnh được tìm thấy ở các vùng khác nhau của bang và họ không tìm thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa những đứa trẻ này; điều đó có nghĩa là các ca bệnh này cùng bị chung “một yếu tố nào đó” gây ra viêm gan tối cấp và nguy hiểm.

Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC Hoa kỳ) đang tiến hành một cuộc điều tra quy mô cấp quốc gia để tìm kiếm các trường hợp tương tự về mặt lâm sàng.

Tờ Stat News, trích dẫn một bài báo khoa học về một trường hợp ở Scotland, cho biết đại dịch có thể đã đóng một vai trò nào đó, lưu ý rằng những đứa trẻ bị ảnh hưởng có thể chưa tiếp xúc với nhiều loại mầm bệnh trong đại dịch, và do đó dễ bị nhiễm bệnh hơn và có thể bị nhiễm Covid-19 hơn một lần, đặc biệt trong bối cảnh các biện pháp hạn chế cũng như cảnh báo của COVID-19 đã được nới lỏng rất nhiều.

Viêm gan tối cấp nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến suy đa tạng và có thể tử vong. Hiện nay các phụ huynh đang quan tâm đến đại dịch COVID mà có thể CÓ LIÊN QUAN đến các mầm bệnh thông thường khác nhưng lại gây ra các biến chứng vô cùng nguy hiểm. Như vậy cần có thái độ quan tâm cũng như có những biện pháp phù hợp để bảo vệ gan của trẻ trước những ảnh hưởng xấu của dịch bệnh.

—————–

Nguồn: 

The World Health Organization is investigating cases of perfectly healthy kids getting rare and severe liver damage-  https://africa.businessinsider.com/health/the-world-health-organization-is-investigating-cases-of-perfectly-healthy-kids/mj9l8m8


Tăng nguy cơ mắc tiểu đường dù mắc COVID nhẹ

Mắc COVID-19 nhẹ cũng làm tăng nguy cơ bệnh tiểu đường

Tình trạng tăng đường huyết mới khởi phát và kháng insulin đã được báo cáo ở những bệnh nhân COVID-19. Vậy mắc COVID-19 nhẹ có làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường (tiểu đường) hay không?

Mắc COVID-19 nhẹ cũng làm tăng nguy cơ bệnh tiểu đường

Để trả lời câu hỏi trên, giáo sư Wolfgang Rathmann và cộng sự đã nghiên cứu so sánh tỷ lệ mới mắc bệnh đái tháo đường trên 35.865 bệnh nhân nhẹ so với 35.865 bệnh nhân nhiễm trùng đường hô hấp trên cấp tính.

Kết quả phân tích chỉ ra những người mắc bệnh thể  nhẹ có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường cao hơn 28% so với người bị nhiễm trùng đường hô hấp trên cấp tính.

Các nghiên cứu mới nhất liên quan COVID-19 và đái tháo đường

Vào tháng 2, một nghiên cứu do PGS Jason Block (Trường Y Harvard, tác giả chính) được công bố trên tạp chí JAMA Network Open cũng chỉ rõ, F0 sau khỏi COVID-19 sau 1-5 tháng cũng có nguy cơ mắc tiểu đường tuýp 2. Khoảng 7% người lớn nhập viện vì COVID-19 được chẩn đoán tiểu đường trong vòng 5 tháng, cao hơn so với con số 3,6% ở người khỏe mạnh.
Tác giả cho biết nhiều người không tới gặp bác sĩ khi dịch căng thẳng và họ có thể mắc tiểu đường mà không hay biết. Ngoài ra, steroid – loại thuốc thường được sử dụng cho bệnh nhân COVID-19 thể nặng – có thể làm tăng lượng đường trong máu tạm thời, gây ra bệnh lý này.

Một số giả thuyết được đưa ra giải thích lý do tăng nguy cơ đái tháo đường sau nhiễm COVID-19. Virus SARS-CoV-2 có thể tấn công tuyến tụy – nơi sản xuất insulin. COVID-19 làm tăng các marker viêm, có thể gây rối loạn chức năng tuyến tụy. Ngoài ra, một số thuốc điều trị bệnh nhân COVID-19 có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường.

Tác giả cho biết thêm, cần thêm nghiên cứu đánh giá biểu hiện đái tháo đường type 2 sau mắc COVID-19 nhẹ chỉ là tạm thời và có thể hồi phục hay dẫn đến tình trạng bệnh mạn tính.