Các biến thể gây di chứng Hậu COVID khác nhau

Các biến thể có thể gây di chứng hậu COVID-19 khác nhau

Di chứng hậu COVID-19 có thể ảnh hưởng đến mọi người sau nhiễm Sars-Cov-2 ở mọi lứa tuổi, cả người có bệnh nền hay khỏe mạnh. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến người bệnh phải nhập viện mà cả người bị bệnh nhẹ.

Các biến thể có thể gây di chứng hậu COVID-19 khác nhau

Tiến sĩ Destin Groff và cộng sự tiến hành nghiên cứu tổng quan hệ thống dựa trên 57 nghiên cứu đã công bố gồm hơn 250.000 bệnh nhân sau nhiễm COVID-19. Theo phân tích, hơn một nửa số bệnh nhân có triệu chứng hậu COVID-19 kéo dài sau 6 tháng.

Các triệu chứng có thể gặp như: Đau ngực, khó thở; mệt mỏi; mất vị giác và/hoặc khứu giác; Lo lắng và trầm cảm; Lú lẫn và khó tập trung, còn được gọi là “sương mù não”; Đau khớp.

Nguyên nhân của COVID kéo dài vẫn chưa được biết rõ, có thể liên quan đến tác động trực tiếp của virus hoặc ảnh hưởng gián tiếp đến sức khỏe tâm thần do căng thẳng và các yếu tố như giãn cách xã hội và mất việc làm.

Một số ảnh hưởng trực tiếp do virus:

  • Virus tổn tại dai dẳng trong cơ thể
  • Phản ứng viêm và tự miễn 
  • Tổn thương mô do thiếu oxy khi mắc bệnh
  • Tổn thương thần kinh

Một số nghiên cứu cho thấy các biến thể có thể gây ra các triệu chứng hậu COVID khác nhau.

So với chủng vi-rút SARS-CoV-2 ban đầu, biến thể Alpha có nhiều khả năng gây ra các hậu quả kéo dài về sức khỏe tâm thần và nhận thức. Mặt khác, biến thể Alpha dường như ít gây suy giảm thính lực hoặc mất khứu giác hơn so với chủng ban đầu.

—-

Tài liệu tham khảo:

Groff D, Sun A, Ssentongo AE, et al. Short-term and Long-term Rates of Postacute Sequelae of SARS-CoV-2 Infection: A Systematic Review. JAMA Netw Open. 2021;4(10):e2128568.


Bệnh nhân ung thư dễ mắc COVID nặng dù tiêm vaccine

Bệnh nhân ung thư dễ mắc COVID-19 dù đã tiêm vaccine

Bệnh nhân ung thư đã tiêm vaccine vẫn có nguy cơ bị nhiễm COVID-19 cao hơn dẫn đến tỷ lệ nhập viện và tử vong cao.

Bệnh nhân ung thư dễ mắc COVID-19 dù đã tiêm vaccine

Nguy cơ mắc COVID-19 ở bệnh nhân ung thư tăng lên đáng kể và diễn tiến bệnh thường nghiêm trọng hơn. Thật may mắn, tiêm vaccine đã được chứng minh làm giảm tỷ lệ nhiễm virus SARS-CoV-2. Tuy nhiên, đã có nhiều báo cáo về nhiễm bệnh sau tiêm vaccine COVID-19 còn được gọi là nhiễm đột phá (Breakthrough infection).

Tiến sĩ William Wang và cộng sự đã tiến hành đánh giá cơ sở dữ liệu TriNetX gồm 90 triệu bệnh nhân tại Mỹ. So sánh tỷ lệ COVID-19 sau tiêm vaccine ở nhóm bệnh nhân ung thư và nhóm không ung thư. Nhóm bệnh nhân ung thư mắc 1 trong 12 loại ung thư thuộc các cơ quan: tuyến tụy, gan, phổi, đại trực tràng, da và tuyến giáp. 

Các nhà nghiên cứu xem xét tỷ lệ mới mắc hàng tháng từ tháng 12/2020 đến tháng 11/2021 cũng như nguy cơ nhập viện và tử vong của các trường hợp nhiễm đột phá.

Kết quả phân tích chỉ ra nguy cơ tích lũy nhiễm đột phá ở bệnh nhân ung thư là 13,6%, cao hơn bệnh nhân không ung thư. Phân loại theo cơ quan, nguy cơ cao nhất ở bệnh nhân ung thư tuyến tụy (24,7%), tiếp theo là gan (22,8%), phổi (20,4%) và đại trực tràng (17,5%).

Nguy cơ nhập viện của bệnh nhân ung thư bị nhiễm trùng đột phát cao hơn nhiều so với bệnh nhân không ung thư (31,6% so với 3,9%). Ngoài ra, nguy cơ tử vong cũng tăng lên đáng kể.

—-

Tài liệu tham khảo:

Wang W et al. Breakthrough SARS-CoV-2 Infections, Hospitalizations, and Mortality in Vaccinated Patients With Cancer in the US Between December 2020 and November 2021 JAMA Oncol 2022


Người mắc viêm gan C dễ bị COVID nặng

Người mắc viêm gan C tăng nguy cơ COVID-19 nặng

Người mắc viêm gan C mạn tính có nguy cơ cao tiến triển triển bệnh nặng khi nhiễm COVID-19. Tỷ lệ tổn thương gan ở bệnh nhân COVID-19 nặng cũng cao hơn nhóm bệnh nhân không nặng.

Người mắc viêm gan C tăng nguy cơ COVID-19 nặng

Theo Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC), người mắc bệnh gan (như viêm gan C) có nguy cơ cao tiến triển bệnh nặng nếu nhiễm COVID-19.

Theo nghiên cứu mới công bố trên tạp chí Liver International, ở người bị viêm gan C, khi nhiễm COVID-19 có nhiều khả năng trở nặng và phải nhập viện điều trị nếu chỉ số xơ hóa gan (FIB-4) cao. Cụ thể, tỷ lệ nhập viện điều trị COVID-19 ở nhóm nhiễm virus viêm gan C gấp 1,4 lần nhóm không nhiễm virus này.

Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tổn thương gan thường gặp ở những bệnh nhân nặng bị nhiễm SARS-CoV-2, đặc biệt là các trường hợp có bệnh gan trước đó. Khoảng một nửa số bệnh nhân nhập viện do COVID-19 có tình trạng tăng men gan, dấu hiệu chỉ báo tổn thương gan.

Để được tư vấn về biện pháp chăm sóc sức khỏe cho người mắc viêm gan C khi nhiễm COVID-19, Quý khách vui lòng tham gia nhóm Zalo Bacsi Online để đặt câu hỏi và được trả lời trực tiếp từ Đội ngũ Bác sĩ.

——

Tài liệu tham khảo:

Butt AA, Yan P, Chotani RA, Shaikh OS. Mortality is not increased in SARS-CoV-2 infected persons with hepatitis C virus infection. Liver Int. 2021 Aug;41(8):1824-1831.


Nguy cơ cục máu đông phụ nữ mang thai mắc COVID

Estrogen và COVID-19: nguy cơ cục máu đông ở phụ nữ mang thai

Theo một nghiên cứu mới đây, phụ nữ đang mang thai hoặc sử dụng nội tiết tố estrogen như biện pháp tránh thai hoặc liệu pháp hormone thay thế có nguy cơ hình thành cục máu đông cao hơn khi nhiễm COVID-19.

Tăng nguy cơ cục máu đông ở phụ nữ mang thai hoặc sử dụng thuốc tránh thai khi mắc COVID-19

Tăng nguy cơ cục máu đông ở phụ nữ mang thai hoặc sử dụng thuốc tránh thai khi mắc COVID-19

Sử dụng nội tiết tố estrogen có liên quan đến tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. 

Ở phụ nữ mắc rối loạn đông máu trước đó, nguy cơ hình thành cục máu đông cao nhất trong năm đầu tiên điều trị liệu pháp hormone thay thế hoặc uống thuốc tránh thai chứa estrogen. 

Phụ nữ không mắc rối loạn đông máu cũng có nguy cơ đông máu tăng  khi dùng các loại thuốc chứa estrogen.

Khi mang thai, cơ thể sản xuất nhiều estrogen một cách tự nhiên, cũng có liên quan đến tăng hình thành cục máu đông. 

Nhiễm COVID-19 làm cho nguy cơ xảy ra cục máu đông tăng lên. Cục máu đông lớn làm cản trở lưu thông máu trong cơ thể, có thể gây gián đoạn lưu thông máu hoàn toàn dẫn tới hậu quả nghiêm trọng, chẳng hạn như đột quỵ não.

Để giảm nguy cơ hình thành cục máu đông  khi mắc COVID-19, tiến sĩ Hamid Mojibian của Trường Y Đại học Yale (Mỹ) khuyến nghị: “Tăng cường vận động thể dục thể thao, bỏ thuốc lá. Cắt giảm thực phẩm chứa nhiều chất béo bão hòa trong khẩu phần ăn. Đặc biệt, tham vấn bác sĩ chuyên khoa về việc sử dụng thuốc tránh thai chứa estrogen hoặc liệu pháp hormone thay thế ở phụ nữ nhiễm COVID-19.”


Estrogen bảo vệ phụ nữ mắc COVID

Bổ sung estrogen giảm tử vong do COVID-19 ở phụ nữ mãn kinh

Tỷ lệ tử vong do COVID-19 ở phụ nữ mãn kinh giảm khi được sử dụng liệu pháp hormone thay thế giúp tăng nồng độ estrogen.

Theo một nghiên cứu được công bố trên BMJ Open, bổ sung estrogen có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong do COVID-19 ở phụ nữ sau mãn kinh.

Nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Y khoa Umea (Thụy Điển) thu thập dữ liệu thống kê quốc gia thông tin về các phụ nữ mãn kinh nhiễm SARS-CoV-2 để đánh giá liệu pháp bổ sung estrogen có làm giảm tỷ lệ tỷ lệ tử vong do COVID-19 hay không. Dữ liệu có 14.685 phụ nữ từ 50 đến 80 tuổi, chia thành 3 nhóm. 

– Nhóm 1 gồm 227 phụ nữ mắc ung thư vú đang điều trị nội tiết (nồng độ estrogen giảm); 

– Nhóm 2 gồm 2.535 phụ nữ sử dụng liệu pháp hormone thay thế (nồng độ estrogen tăng);

– Nhóm 3 gồm 11.923 phụ nữ không điều trị nội tiết – nhóm đối chứng (nồng độ estrogen sau mãn kinh).

Phụ nữ mãn kinh & COVID-19

Theo nghiên cứu này, nguy cơ tử vong do nhiễm SARS-CoV-2 thấp nhất nhóm phụ nữ mãn kinh sử dụng liệu pháp hormone (bổ sung estrogen). Nhóm có nồng độ estrogen giảm có nguy cơ tử vong cao nhất, cao gấp hơn 5 lần nhóm được bổ sung estrogen. Nhóm phụ nữ mãn kinh không điều trị nội tiết cũng có nguy cơ tử vong cao hơn nhóm được bổ sung estrogen. 

Theo nhóm tác giả, cần thêm các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên để đánh giá hiệu quả giảm mức độ nghiêm trọng và tử vong do COVID-19 của liệu pháp bổ sung estrogen ở phụ nữ mãn kinh.


Tăng nguy cơ COVID-19 nặng ở nam giới thiếu hụt testosterone

Testosterone thấp gây COVID-19 trở nặng ở nam giới

Theo nghiên cứu mới đây trên tạp chí JAMA, nồng độ testosterone  (hormone sinh dục nam) thấp có thể làm tăng nguy cơ mắc COVID-19 nặng ở nam giới.

Nồng độ testosterone thấp có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh nặng ở nam giới nhiễm COVID-19

Nồng độ testosterone thấp có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh nặng ở nam giới nhiễm COVID-19

Nhìn chung, nam giới mắc COVID-19 thường có tình trạng bệnh nặng hơn phụ nữ.

Tác giả Abhinav Diwan, giáo sư Đại học y Washington, Mỹ, cho biết: “Trong đại dịch COVID-19, có một quan niệm rằng testosterone là không tốt. Nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy điều ngược lại, bệnh nhân nam có nồng độ testosterone càng thấp thì càng có nguy cơ cao bị tình trạng bệnh trầm trọng và tử vong do COVID-19, cao hơn nhiều so với với các bệnh nhân nam có mức độ testosterone cao hơn.”

Trước đó, giáo sư Abhinav Diwan và các đồng nghiệp đã định lượng nồng độ một số hormone trong máu của 143 bệnh nhân COVID-19, gồm cả nam và nữ, nhập viện điều trị.

Phân tích kết quả cho thấy không có mối tương quan nào giữa nồng độ của các loại nội tiết tố và mức độ nghiêm trọng của COVID-19 ở phụ nữ. Còn ở nam giới, nồng độ testosterone có liên quan với mức độ bệnh.

Bệnh nhân nam với nồng độ testosterone thấp nhất có nguy cơ phải thở máy, phải nằm tại phòng chăm sóc đặc biệt hoặc nguy cơ tử vong cao nhất.

Các chuyên gia cho biết, điều trị nam giới có nồng độ testosterone thấp bằng liệu pháp hormon có thể giúp giảm nguy cơ bị tình trạng bệnh nghiêm trọng khi mắc COVID-19, tuy nhiên đi kèm đó là những nguy cơ khác mà bác sĩ và bệnh nhân sẽ cần phải cân nhắc khi sử dụng hormon.


Ảnh hưởng COVID đến phụ nữ

COVID-19 và sức khỏe sinh sản phụ nữ

Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của dân số toàn cầu. Căng thẳng, lo âu được biết đến là yếu tố có thể gây bất thường chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ. Vậy đại dịch COVID-19 ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe sinh sản ở phụ nữ?

Để đánh giá tác động của dịch COVID-19 tới sức khỏe sinh sản ở phụ nữ, Niamh Phelan và cộng sự công tác tại Khoa Nội tiết, Đại học Tallaght (Ireland)  đã khảo sát 1031 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Kết quả nghiên cứu cho thấy các thay đổi chu kỳ kinh nguyệt cũng như thay đổi về lối sống và sức khỏe tâm thần ở phụ nữ trong đại dịch COVID-19.

womencovid-19_effects

womencovid-19_effects

1. Thay đổi chu kỳ kinh nguyệt trong đại dịch COVID-19

Gần một nửa phụ nữ được khảo sát cho biết có thay đổi về chu kỳ kinh nguyệt:

– Các triệu chứng trước kỳ kinh nguyệt trở nên trầm trọng hơn (53%). 

– Trong giai đoạn dịch, tỷ lệ phụ nữ chậm kinh cao hơn so với trước đó. 9% chậm kinh mới xuất hiện từ khi dịch COVID-19 xảy ra. 

– Kinh nguyệt ra nhiều (47%)

– Tỷ lệ đau bụng kinh tăng (49%); 30% mới xuất hiện đau bụng kinh trong giai đoạn dịch

– Giảm ham muốn tình dục (45%)

2. Thay đổi lối sống và sức khỏe tâm thần trong đại dịch COVID-19

Khoảng 2/3 phụ nữ đã tăng cân trong giai đoạn dịch COVID-19.  Một nửa số được hỏi cho biết chế độ dinh dưỡng của họ trở nên kém lành mạnh hơn. Tỷ lệ uống quá nhiều rượu tăng hơn 1,5 lần so với trước dịch.

Có sự gia tăng đáng kể các triệu chứng rối loạn sức khỏe tâm thần ở phụ nữ trong đại dịch COVID-19. 84% phụ nữ bị ít nhất một triệu chứng rối loạn như: chán nản (50%), lo lắng (50%), ngủ ít (49%), giảm khả năng tập trung (36%),… Hai tác nhân gây căng thẳng hay gặp nhất là căng thẳng do công việc và khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Những phụ nữ trải qua ít nhất một rối loạn sức khỏe tâm thần (chán nản, lo lắng, căng thẳng) có nhiều nguy cơ rối loạn chu kỳ kinh nguyệt từ khi dịch COVID-19 xảy ra: tỷ lệ đau bụng kinh tăng, triệu chứng trước kỳ kinh trầm trọng hơn, cũng như giảm ham muốn tình dục so với trước dịch.


trịeu chung covid

Các triệu chứng covid-19

Thể Delta Thể Omicron
Ủ bệnh

(4-7 ngày)

Giai đoạn ủ bệnh: 2-14 ngày, trung bình từ 4-7 ngày. Giai đoạn này virus sau khi nhiễm vào đang nhân lên cho đến khi đủ mạnh để bộc lộ ra triệu chứng.
Khởi phát

(5-7 ngày)

Các dấu hiệu nhiễm biến thể Delta – B.1.617.2 của SARS-CoV-2 gồm:

– Ho

– Sốt (trên 37,5 độ C)

– Đau đầu

– Đau họng, rát họng

– Sổ mũi, chảy mũi, ngạt mũi

– Khó thở

– Đau ngực, tức ngực

– Đau mỏi người, đau cơ

– Mất vị giác

– Mất khứu giác

– Đau bụng, buồn nôn

– Tiêu chảy.

Các dấu hiệu nhiễm biến thể Omicron – B. 1.1.529 của COVID-19 gồm:

 – Ho và chảy nước mũi

– Mệt mỏi

– Đau đầu

– Đau cơ

– Sốt

– Buồn nôn

– Giảm cảm giác thèm ăn

– Giảm khả năng vị giác

– Giảm khả năng khứu giác

– Khó thở

 

 

Triệu chứng cần thông báo y tế Chỉ cần 1 trong các triệu chứng sau:

+ Khó thở, đo SpO2 <95%

+ Đau hoặc tức ngực thường xuyên

+ Da, móng tay hoặc môi nhợt nhạt, xám hoặc có màu xanh, tùy vào tông da.

Phân biệt với cúm thông thường Trong khi các triệu chứng COVID-19 thường xuất hiện từ 2 đến 14 ngày sau khi tiếp xúc với SARS-CoV-2, các triệu chứng của cảm lạnh thông thường thường xuất hiện từ 1 đến 3 ngày sau khi tiếp xúc với virus gây cảm lạnh.

Một số triệu chứng của virus cúm thông thường:

– Ho và chảy nước mũi

– Mệt mỏi

– Đau họng

– Có thể có sốt

– Giảm khứu giác khi có ngạt mũi

Chẩn đoán khi test nhanh hoặc test PCR âm tính với COVID.

Triệu chứng hay gặp ở trẻ em – Sốt.

– Mệt mỏi.

– Đau đầu.

– Ho khan.

– Đau họng.

– Nghẹt mũi/sổ mũi,.

– Mất vị giác/khứu giác.

– Nôn và tiêu chảy, đau cơ…

Tuy nhiên khá nhiều trẻ không có triệu chứng.

– Các triệu chứng khác ít gặp hơn: 

+Tổn thương da (hồng ban các đầu ‎ngón chi, nổi ban da…)

+ Rối loạn nhịp tim

+ Tổn thương thận cấp

+ Viêm gan

 

Một số triệu chứng thông báo với nhân viên y tế Sốt trên 38 độ C kéo dài quá 5 ngày 

+ Trẻ lớn đã biết kêu tức ngực, trẻ nhỏ hơn thì người chăm sóc thấy trẻ quấy khóc hoặc các biểu hiện khác thường của trẻ như bỏ bú, chậm tiếp xúc, mắt kém linh hoạt.

+ Trẻ kêu đau rát họng, ho.

+ Trẻ cảm giác khó thở hoặc người lớn quan sát và nhận thấy trẻ khó thở.

+ Trẻ bị tiêu chảy kéo dài 

+ Đo SpO2 dưới 95%.

+ Trẻ mệt, không chịu chơi.

+ Trẻ ăn/bú kém, bỏ bú.


covid lây nhiễm

COVID-19 lây lan như thế nào?

COVID-19 lây lan khi người nhiễm bệnh thở, ho hoặc hắt hơi tạo ra các giọt bắn và các hạt rất nhỏ chứa virus. Giọt bắn có thể rơi vào miệng hoặc mũi của những người ở gần hoặc bị hít vào phổi. Trong một số trường hợp, một người có thể bị nhiễm khi tay họ chạm lên mặt sau khi tiếp xúc với bề mặt ô nhiễm bởi các giọt bắn chứa virus. Người tiếp xúc gần (khoảng cách 2m) với người bệnh có nhiều khả năng bị nhiễm bệnh nhất.

COVID-19 lây lan theo ba cách chính:

  • Hít phải không khí khi ở gần người bệnh thở ra các hạt rất nhỏ chứa virus.
  • Giọt bắn và các hạt rất nhỏ chứa virus rơi vào mắt, mũi hoặc miệng.
  • Tay có virus chạm vào mắt, mũi hoặc miệng.

tái nhiễm covid

Tái nhiễm COVID-19

Tái nhiễm virus gây bệnh COVID-19 có nghĩa là một người đã bị nhiễm, khỏi bệnh và sau đó bị nhiễm lại. Sau khi khỏi COVID-19, hầu hết người nhiễm đã khỏi sẽ có một số biện pháp bảo vệ khỏi bị tái nhiễm. Tuy nhiên, tình trạng tái nhiễm vẫn xảy ra sau khi mắc COVID-19. 

Các nhà khoa học đang tiếp túc nghiên cứu về tình trạng tái nhiễm COVID-19 để làm sáng tỏ các vần đề như:

  • Tần suất tái nhiễm COVID-19 như thế nào?
  • Những ai có nguy cơ cao bị tái nhiễm?
  • Bao lâu sau lần nhiễm bệnh trước thì bị tái nhiễm?
  • Mức độ nghiêm trọng khi tái nhiễm COVID-19 so với lần nhiễm đầu tiên?
  • Nguy cơ lây truyền cho người khác sau khi tái nhiễm?